Với mục tiêu bảo vệ nạn nhân của tội phạm mua bán người, Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 đã được ban hành bảo đảm tương thích với luật pháp quốc tế.
Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (UNTOC). (Nguồn: crimealliance)
Phòng, chống mua bán người được điều chỉnh trong pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự của hầu hết các quốc gia đều quy định về tội mua bán người, song tập trung chủ yếu trừng phạt người phạm tội thay vì bảo vệ nạn nhân. Với mục tiêu bảo vệ nạn nhân của tội phạm mua bán người, Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 đã được ban hành bảo đảm tương thích với Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (UNTOC) và Nghị định thư về việc ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung Công ước UNTOC (Nghị định thư TIP).
Quy định của Công ước UNTOC về mua bán người
UNTOC (United Nations Convention against Transnational Organized Crime) được thông qua theo Nghị quyết A/RES/55/25 ngày 15/11/2000 tại kỳ họp thứ 55 của Đại hội đồng Liên hợp quốc tại Palermo, Italy. Việt Nam cùng 12 quốc gia đã ký Công ước vào tháng 12/2000. Công ước có hiệu lực ngày 29/9/2003, với 189 quốc gia thành viên (tính đến tháng 3/2024).
Để đánh giá quá trình thực thi Công ước, năm 2018, các quốc gia đã thống nhất thành lập Cơ chế đánh giá chung và 3 Nghị định thư bổ sung Công ước về phòng ngừa buôn bán người, chống di cư bất hợp pháp và chống sản xuất, buôn bán trái phép vũ khí, trong có Nghị định thư TIP.
Hình sự hóa tội mua bán người là một trong các nghĩa vụ của quốc gia theo Điều 5 của Nghị định thư TIP và theo Khuyến nghị của Hội đồng Kinh tế và Xã hội: "các quốc gia cần thông qua các biện pháp xây dựng pháp luật và các biện pháp cần thiết khác để xác định hành vi mua bán người là tội phạm với các điều khoản xác định các hành vi cấu thành liên quan".
Về khái niệm hành vi mua bán người, Điều 3, Nghị định thư TIP quy định: "mua bán người là việc tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách đe dọa, sử dụng bạo lực hay các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc cho hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người kiểm soát đối với những người khác vì mục đích bóc lột". "Hành vi bóc lột ở đây ít nhất là bao gồm bóc lột vì mục đích mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, khổ sai hay lấy các bộ phận cơ thể.".
Đối với nạn nhân bị mua bán, Điều 3 Nghị định thư TIP xác định nạn nhân trẻ em là người dưới 18 tuổi. Nhằm bảo vệ nạn nhân của hành vi phạm tội, UNTOC và Nghị định thư yêu cầu các quốc gia phải "kiềm chế" truy tố nạn nhân, nhưng không bắt buộc các quốc gia cho phép nạn nhân được cư trú trên lãnh thổ. Theo Nghị định thư TIP, nạn nhân không được miễn trừ khỏi việc truy tố, giam giữ, trục xuất hoặc các hình thức xử lý vi phạm khác đối với các hành vi đã vi phạm trong thời gian bị bóc lột.
UNTOC và các Nghị định thư bổ sung được ban hành nhằm mục đích chống lại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. UNTOC đưa ra cách hiểu về nhóm tội phạm có tổ chức tại Điều 2 và xác định một hành vi có tính chất xuyên quốc gia tại khoản 2 Điều 3 UNTOC.
Tội phạm mua bán người là tội phạm có tính chất xuyên quốc gia bởi nó được thực hiện ở nhiều quốc gia, thực hiện ở một quốc gia nhưng việc chuẩn bị, lên kế hoạch, chỉ đạo tội phạm lại ở một quốc gia khác do đó cần được thực hiện qua hoạt động hợp tác quốc tế. Dẫn độ là một trong các nội dung hợp tác quốc tế, các quốc gia phải bảo đảm rằng người thực hiện hành vi buôn người, các hành vi cấu thành của buôn bán người có thể dẫn độ theo luật quốc gia hoặc các hiệp ước về dẫn độ.
UNTOC không buộc các quốc gia phải tội phạm hóa yếu tố về "bản chất xuyên quốc gia" trong cấu thành nhóm tội phạm có tổ chức, nhưng yêu cầu nhóm tội phạm có tổ chức phải nhằm mục đích tìm kiếm lợi ích tài chính hay vật chất khác.
Luật Phòng chống mua bán người 2024. (Nguồn: Thư viện pháp luật)
Hành vi mua bán người trong pháp luật Việt Nam
Pháp luật Việt Nam chưa có khái niệm thống nhất, toàn diện về mua bán người. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định về tội mua bán người (Điều 150), tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151) nhưng chưa bao hàm hết cách hiểu về "buôn bán người" và không có sự phân định giữa hành vi mua "bán người", "đưa người di cư trái phép" bằng đường bộ, đường biển, đường hàng không theo quy định trong UNTOC và Nghị định thư TIP.
Thay vào đó, Bộ luật Hình sự quy định về tội tổ chức tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 349) và tội mua bán người (chỉ bao gồm hành vi mua và bán). Như vậy, hành vi mua bán người phải chịu trách nhiệm hình sự bị thu hẹp phạm vi hơn so với Nghị định thư TIP.
Pháp luật Việt Nam chỉ xem xét trách nhiệm hình sự đối với cá nhân và quy định về đồng phạm hay phạm tội có tổ chức; không quy định về nhóm tội phạm và hành vi tham gia nhóm tội phạm có tổ chức theo Điều 2 UNTOC.
Công ước không buộc các quốc gia phải tội phạm hóa yếu tố về "bản chất xuyên quốc gia" trong cấu thành nhóm tội phạm có tổ chức, nhưng lại yêu cầu nhóm tội phạm có tổ chức phải nhằm mục đích tìm kiếm lợi ích tài chính hay vật chất khác.
Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2025) đã đưa ra cách hiểu nạn nhân của tội mua bán người là người bị chuyển giao, chứa chấp hoặc tiếp nhận để giao nhằm mục đích nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác, bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể người hoặc nhằm mục đích vô nhân đạo khác bằng cách dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác.
Nạn nhân của tội phạm mua bán người được xác định bao gồm cả những người xuất cảnh trái phép, trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài trái phép. Tại Việt Nam, khi họ đủ dấu hiệu của tội phạm vẫn có thể bị truy cứu theo Điều 347 Bộ luật hình sự hiện hành. Bộ luật Hình sự hiện hành quy định riêng về tội mua bán người dưới 16 tuổi nên thiếu các biện pháp đặc biệt để bảo vệ người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là nạn nhân bị mua bán. Do đó, cần có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp để bảo vệ quyền trẻ em.
Tại Việt Nam, tội phạm mua bán người chủ yếu là mua bán ra nước ngoài, nên thực hiện theo các quy định của Luật Tương trợ tư pháp năm 2007. Luật tương trợ tư pháp và Bộ luật Hình sự chưa tương thích dẫn đến việc ký kết các điều ước quốc tế giữa cơ quan điều tra (Bộ Công an) với các đối tác gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa quy định cách thức nội luật hóa điều ước quốc tế.
Do đó, UNTOC và Nghị định thư TIP muốn được áp dụng tại Việt Nam phải chờ ban hành văn bản pháp luật hoặc sửa đổi văn bản pháp luật hiện hành. Sự khác biệt giữa quy định pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước, rào cản về ngoại giao… đã gây khó khăn trong công tác tương trợ tư pháp dẫn đến việc điều tra vụ án, xác minh, giải cứu nạn nhân chậm trễ.
Hội thảo "Góp ý dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi)” ngày 19/3/2024, tại Hà Nội. (Nguồn: Quốc hội)
Hoàn thiện pháp luật tương thích với UNTOC
Có thể thấy, một số nội dung về mua bán người trong pháp luật Việt Nam vẫn còn một số nội dung chưa tương thích với Công ước UNTOC và Nghị định thư TIP. Do vậy, để thực thi các nội dung của UNTOC, cũng như đồng bộ hệ thống pháp luật quốc gia, Việt Nam cần chú trọng hoàn thiện các quy định theo hướng:
Một là, hoàn thiện quy định pháp luật về tội phạm mua bán người và xác định nạn nhân của tội phạm. Nghiên cứu, điều chỉnh quy định về tội mua bán người trong Bộ luật hình sự đáp ứng yêu cầu công tác thực thi UNTOC và Nghị định thư TIP; bổ sung "Tội phạm tham gia nhóm tội phạm có tổ chức"; mở rộng khái niệm đồng phạm nhằm tương thích với khái niệm tội phạm có tổ chức để tạo cơ sở pháp lý đấu tranh hiệu quả với tội phạm mua bán người có tổ chức xuyên quốc gia.
Hai là, hoàn thiện pháp luật theo hướng bảo đảm tốt hơn quyền của nạn nhân của tội phạm mua bán người. Cần có chính sách hình sự riêng dành cho nạn nhân bị mua bán. Bảo vệ thông tin của nạn nhân bằng cách áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế các thủ tục không cần thiết khi xét xử các vụ án mua bán người; ban hành các quy định về chế độ đối với nạn nhân từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi hoặc mở rộng phạm vi độ tuổi trong khái niệm "trẻ em" trong Bộ luật Hình sự.
Ba là, tạo cơ chế hợp tác quốc tế trong phòng, chống mua bán người. Sớm nghiên cứu, ban hành văn bản luật hoặc dưới luật nhằm nội luật hóa UNTOC và Nghị định thư TIP phù hợp với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam; tích cực ký hiệp định song phương với các quốc gia về phòng, chống mua, bán người nhằm chủ động ngăn chặn các hoạt động mua bán người xuyên biên giới.
Bốn là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống mua bán người. Người dân cần nắm được tình hình tội phạm, nguy cơ, phương thức, thủ đoạn phạm tội mua bán người và có những minh họa phù hợp. Bồi dưỡng năng lực, phát huy vai trò của các cán bộ phụ nữ tại cơ sở cần trong tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tội phạm mua bán người cho mọi người dân. Đẩy mạnh giáo dục cấp phổ thông nhằm nâng cao nhận thức về thủ đoạn và cách thức phòng, chống tội phạm cho học sinh, sinh viên.
Baoquocte / TS. Lê Quỳnh Mai - TS. Bùi Trung Hiếu