• Không ai muốn phải gọi số điện thoại khẩn cấp, nhưng tai nạn, hỏa hoạn, cướp giật...dường như diễn ra mỗi ngày. Do đó nếu sống ở Vương quốc Anh, bạn hãy thuộc nằm lòng các số điện thoại khẩn cấp sau đây:

    999 - gọi khi gặp hỏa hoạn, tội phạm hoặc vấn đề y tế khẩn cấp

    Đây là số điện thoại khẩn cấp lâu đời nhất thế giới, được thành lập năm 1937 và hoạt động trong khu vực London. Số này được thiết lập sau khi 5 phụ nữ tử vong trong một vụ hỏa hoạn. 

    Khi gọi 999, bạn sẽ được kết nối với một điện thoại viên. Họ sẽ hỏi bạn cần gọi cảnh sát, cứu hỏa hay cứu thương. Nếu bạn không thể nói, nhưng đang trong tình trạng khẩn cấp, hãy bấm tiếp số 55 để điện thoại viên chú ý mà không cần phải nói thành lời. Cách này áp dụng cho người dùng điện thoại di động. Nếu đang dùng điện thoại bàn, bạn hãy cố gắng thầm thì, ho hoặc gõ lên các nút bấm. Bạn sẽ được chuyển máy đến cảnh sát.

    101 - gọi cảnh sát trong trường hợp không khẩn cấp

    Nếu bạn muốn nói chuyện với cảnh sát nhưng không phải trường hợp khẩn cấp hoặc nguy hiểm, vậy hãy bấm số 101. Chẳng hạn nếu có thông tin, hình ảnh về một vụ cướp, bạn có thể bấm số 101 để trình báo. Bạn sẽ được kết nối với cảnh sát địa phương.

    105 - gọi khi gặp trục trặc về điện

    Nếu nhà bị mất điện, bạn có thể gọi cho Cơ quan quản lý điện UK (UK Power Networks) thông qua số 105. Bạn có thể gọi số này vào bất cứ lúc nào, 24/7. Nếu vẫn có internet, bạn có thể theo dõi thông tin cập nhật trực tuyến Power Map, điền vào số postcode để biết nơi bạn đang bị cắt điện vì lý do gì.

    111 - số NHS không khẩn cấp

    Nếu bạn đang gặp vấn đề về y tế nhưng không khẩn cấp, vậy hãy bấm gọi 101 để được kết nối với tổng đài NHS. Sau đó, một bác sĩ/nha sĩ hoặc y tá sẽ gọi lại cho bạn. Nếu cần thiết, bạn sẽ được đặt hẹn với một bác sĩ/nha sĩ GP hoặc nhập viện cấp cứu.

    112 - Số khẩn cấp ở châu Âu

    Số 112 ở Europe cũng tương tự 999 ở Anh. Nhưng kể từ năm 1995, người dân ở Anh cũng có thể gọi 112, bạn sẽ được kết nối với tổng đài khẩn cấp tương tự số 999. 

    119 - Đường dây nóng coronavirus

    Nếu bạn nghĩ mình đã tiếp xúc với virus, và muốn liên hệ với dịch vụ truy vết Test and Trace để làm xét nghiệm, vậy hãy gọi 119. Bạn sẽ được hướng dẫn nơi xét nghiệm gần nhất, cũng như các lời khuyên về việc cách ly.

    123 - Số điện thoại hỏi giờ (Talking Clock, Speaking Clock)

    Số điện thoại này xuất hiện từ tháng 7/1936. Đôi khi bạn không chắc bây giờ là mấy giờ. Đồng hồ của bạn không đúng, bạn không tin đồng hồ treo tường, đồng hồ điện thoại...vậy hãy gọi 123. 

    Nếu bạn dùng đường dây điện thoại bàn của BT, khi bấm gọi 123, bạn sẽ được nghe chính xác giờ giấc hiện tại. Thông tin này được cập nhật cứ mỗi 10 giây. Số này hữu ích cho người không có đồng hồ nhưng lại có điện thoại bàn.

    Có điều bạn sẽ bị tính phí 50p/phút. Tuy vậy, dịch vụ "nhảm nhí" này lại khá nhộn nhịp vào dịp giao thừa, Ngày Tưởng Niệm (11/11)...

    so dien thoai khan cap o vuong quoc anh

    159 - trình báo lừa đảo

    Đây là một số khẩn cấp mới dành cho người bị lừa đảo. Nếu bạn nhận được cuộc gọi từ một đối tượng giả làm ngân hàng, hay ai đó gọi đòi tiền, hỏi về thông tin cá nhân...thì bạn hãy ngay lập tức tắt máy. Sau đó gọi 159 để trình báo. Điện thoại viên sẽ giúp bạn kết nối với ngân hàng một cách an toàn.

    70% người có tài khoản thanh toán (current account) tại UK đều có thể dùng số này. Nếu bạn là khách hàng của Santander, Starling Bank, NatWest, Barclays, Lloyds...bạn sẽ được giúp đỡ. 

    Bạn có thể gọi số này dù đang sử dụng dịch vụ của bất kì nhà mạng điện thoại nào. Hiện tại, 159 mới chỉ là số khẩn cấp thí điểm. 

    Đối với tội phạm lừa đảo công nghệ, bạn cũng có thể gọi 0300 123 2040 để trình báo cho Action Fraud. 

    Có số điện thoại khẩn cấp 888 không?

    Có thể bạn đã nhiều lần nghe tới số này, nhưng thực tế là chưa có. Hiện người ta đang kêu gọi thiết lập số này để tạo đường dây nóng giúp đỡ phụ nữ. Chẳng hạn phụ nữ có thể gọi số này khi muốn về nhà vào đêm khuya, hay khi bị kẹt ở một tình huống nguy hiểm. Người ta cũng đang kêu gọi xây dựng ứng dụng 888, sử dụng GPS để cảnh báo nếu taxi chưa đưa bạn tới điểm đến như kế hoạch. 

    Tuy nhiên, số 888 vẫn chưa được thiết lập. Do đó nếu rơi vào trường hợp khẩn cấp, hãy gọi 999.

    Viethome (theo Metro)

  • Thuế cửa sổ, nghe có vẻ rất khó tin thời nay, nhưng vào thời của nhà văn Anh Charles Dickens, người dân phải trả tiền mới được mở cửa sổ đón ánh sáng và khí trời vào nhà.

    Nhà văn Anh Charles Dickens vốn nổi tiếng vì những tác phẩm viết về cảnh nghèo đói ở London. Những trang văn với lát cắt cuộc đời chi tiết đến mức mà chỉ sống trong cảnh đó thì người ta mới có thể lột tả được. Tuy nhiên, ngoài việc giúp người đời thấu hiểu tình cảnh của người nghèo London, Dickens còn có tác động thực sự tới chính sách thực tế, như lần ông giúp nước Anh bãi bỏ thuế cửa sổ áp dụng suốt 156 năm.

    Thuế cửa sổ, nghe có vẻ rất khó tin thời nay, nhưng vào thời Dickens, theo một bộ luật giúp chính phủ Anh kiếm nhiều tiền từ các tòa nhà, người dân phải trả tiền mới được đón ánh sáng và khí trời vào nhà. Giữa năm 1696 và 1851, Quốc hội Anh đặc biệt coi trọng cửa sổ và có nhiều luật ảnh hưởng tới kiến trúc thời đó, thậm chí còn khiến cuộc sống của người dân lâm nguy.

    Thuế cửa sổ chỉ là một trong hàng chục các sắc thuế “sáng tạo” được đưa ra để thu tiền cho chính phủ bằng cách khiến người dân phải trả nhiều tiền hơn cho nơi mà họ sống.

    Thuế cửa sổ được đưa ra năm 1696 nhằm bù lại khoản chi phí phát hành tiền tệ mới và để thanh toán khoản chi khổng lồ dành cho chiến tranh, ngoại giao và các cung điện xa hoa. Theo luật, người giàu sẽ phải trả thuế cửa sổ nhiều hơn người nghèo, dựa trên giả định là người nhiều tiền có thể chi tiền để nhà có nhiều cửa sổ.

    Trong khi đó, ở các thành phố, người nghèo sống trong các tòa nhà chung cư đông đúc có rất nhiều cửa sổ. Nhằm hỗ trợ người nghèo, một điều khoản trong luật quy định chủ các tòa nhà phải trả khoản thuế này.

    Còn thực tế thì sao? Người dân Anh đã lách luật kiểu này: Thay vì trả thuế cửa sổ, người có nhà nhiều cửa sổ, kể cả chủ các tòa nhà chung cư cho thuê, đã chặn cửa sổ bằng gạch hoặc gỗ. Các chủ nhà cũng tăng tiền thuê nhà để bù lại chi phí. Khi họ xây các tòa nhà mới, họ thường giảm số lượng cửa sổ, thậm chí xây nhà không cửa sổ để tránh nộp thuế.

    nha khong co cua so o Anh
    Một tòa nhà bị bịt kín cửa sổ ở Anh. 

    Kết quả là cuộc sống của người thuê nhà không chỉ vô cùng bất tiện mà còn có hại cho sức khỏe. Dịch bệnh lây lan nhanh chóng trong các khu vực không thông thoáng. Người nghèo sống khổ sở trong các tòa nhà rất ít ánh sáng tự nhiên.

    Thuế cửa sổ không phải là loại thuế duy nhất có ảnh hưởng không mong đợi là biến những thứ thiết yếu thành những thứ xa xỉ. Thuế lò sưởi, hay còn gọi là thuế ống khói, là một ví dụ khác. Từ năm 1662 tới 1689, loại thuế này yêu cầu người dân phải trả tiền cho từng cái lò sưởi, bếp lò trong nơi ở.

    Lúc đầu, thuế đánh vào mọi người dân Anh mà không có ngoại lệ. Sau đó, luật này tiếp tục được thay đổi. Quốc hội cuối cùng đã miễn thuế này cho người nghèo. Dù vậy, thuế này cũng khuyến khích người dân chen chúc sống trong các nơi ở chật hẹp, sử dụng các biện pháp sưởi ấm không an toàn hoặc không dùng lò sưởi để tránh nộp thuế. Tại những thời điểm khác nhau trong lịch sử, Quốc hội Anh còn đánh thuế cả những thứ như nến, muối và xà phòng.

    Tất cả những loại thuế trên đều không được lòng dân, đặc biệt là vì chúng thường nhằm vào đối tượng người đi thuê nhà, hơn là chủ nhà, bắt người nghèo phải trả tiền cho những thứ “xa xỉ” như hơi ấm và ánh sáng. Tuy nhiên, thuế cửa sổ là thuế bị ghét nhất và được áp dụng lâu nhất.

    Có lúc, mức thuế cửa sổ tăng lên để đáp ứng nhu cầu các sự kiện đang diễn ra. Ví dụ như lúc Thủ tướng William Pitt tăng gấp ba thuế cửa sổ để có tiền cho cuộc chiến tranh năm 1797 và có tiền bù cho các loại thuế khác bị giảm xuống, như thuế trà. Sự không nhất quán trong mức thuế khiến người dân Anh càng thêm bất mãn và ghen tị với người Ireland – những người do quá nghèo nên được miễn thuế cửa sổ.

    Không ai thấu hiểu tình cảnh của người nghèo Anh hơn nhà văn Dickens. Năm 1824, khi ông mới 12 tuổi, cha ông đã bị tống tù vì không thể trả nợ. Dickens bị đưa tới sống cùng một người bạn của gia đình và buộc phải bỏ học. Thay vì học hành, cậu bé Dickens phải làm việc 10 tiếng mỗi ngày trong các nhà máy bẩn thỉu, dán nhãn cho các lọ xi đánh bóng giày.

    Cuộc sống này đã định hình phần còn lại của cuộc đời Dickens. Không thể học đại học do thiếu tiền và thuộc tầng lớp nghèo hèn, Dickens đã tự học, rồi trở thành một nhà báo phụ trách mảng tin về quốc hội.

    Ông không bao giờ ngừng suy nghĩ về việc viết về người nghèo Anh. Ông viết về người nghèo khi làm một phóng viên điều tra và khi trở thành nhà văn. Với những câu chuyện thấu hiểu về nỗi lo lắng của họ, ông đã phơi bày những điều kiện sống nguy hiểm của người nghèo.

    Theo Báo Tin Tức

  • Ở Trung Quốc và rất nhiều nước trên thế giới, bất kể ô tô, xe đạp hay người đi bộ cũng phải theo đúng quy tắc giao thông hiện hành là đi theo bên phải đường. Nhưng ở nước Anh và một số nước khác thì trái ngược hẳn, mọi phương tiện giao thông cũng như người đi bộ phải đi bên trái đường. Vì sao vậy ?

    Thật ra tập quán này của Anh và một số nước khác cũng có nguyên nhân lịch sử của nó. Từ thế kỷ XIV và XV, khi nước Anh và một số nước khác còn chưa có ô tô và xe đạp, người ta đi lại bằng ngựa, hoặc đi bộ.

    Các hiệp sỹ, các nhà quý tộc giàu có khi đi đường thường đeo kiếm bên mình. Thông thường người ta đều thuận dùng tay phải nên kiếm được đeo bên trái thân mình để khi cần có thể tiện tay rút kiếm ra ngay. Còn khi bị kẻ địch tấn công từ phía trước mặt thì bên trái đường sẽ tiện cho việc đỡ đòn và tấn công kẻ địch hơn. Hãy thử tưởng tượng, nếu bị một kẻ thuận tay phải tấn công từ trước mặt thì đòn tấn công sẽ nhằm vào bên trái người bị tấn công, nên người ta phải né sang phải để tránh đòn. Vì lý do đó mà ở Anh và một số nước mấy trăm năm nay người ta đều đi bên trái đường.

    Về sau súng được phát minh. Khi dùng súng nhằm vào đối phương người ta thường lấy tay trái đỡ súng, tay phải đặt vào cò súng. Trong trường hợp này, đi bên phải đường dễ chống kẻ địch từ phía trước tiến tới hơn. Vì lý do này mà ở các quốc gia phát triển muộn hơn ở Mỹ có quy định đi bên phải đường.

    Trên thế giới phân biệt hai luật giao thông quy định đi bên phải và đi bên trái đường. Đa số các nước, bắt đầu từ Mỹ, Trung Quốc,... đều quy định đi bên phải đường, còn lại là các nước đi bên trái đường như Anh, Nhật Bản.

    Khi Giáo hoàng Boniface VIII cùng đoàn người hành hương đi bên trái đường năm 1300, việc đi bên trái đã được công nhận rộng rãi. Năm 1756, Quốc hội Anh đã thông qua luật quy định xe đi bên trái trên đoạn cầu London. Đến năm 1772, quy định này đã được mở rộng sang các thị trấn ở Scotland. Mức xử phạt đối với người vi phạm là 20shilling (1 bảng Anh). Mãi đến năm 1835, luật đi bên trái đường mới chính thức được quy định trong luật pháp Anh. Dự luật Xa lộ được giới thiệu trong 4 cuộc họp liên tiếp của Quốc hội trước khi nó chính thức trở thành luật.

    drive on left 2800x1723

    Còn việc lái xe bên phải đường bắt đầu từ thời Cách mạng Pháp và những nhân vật được cho là có ảnh hưởng quyết định đến việc thay đổi thói quen đi bên trái sang bên phải đường là Maximilien Robespierre, Napoleon Bonaparte và Adolf Hitler.

    Thời kỳ đó, ở Pháp có sự phân biệt giai cấp rõ ràng khi quy định đi lại bên chiều nào trên đường. Giới quý tộc đánh xe bên trái đường, buộc dân thường đi bên phải đường. Khi cách mạng nổ ra năm 1789 và với tuyên ngôn Nhân quyền năm 1791, giới quý tộc đồng ý với quy định đi lại bên phải đường nhằm tránh sự chú ý của dư luận vào mình.

    Chính Robespirre là người đầu tiên đã soạn ra những thay đổi và yêu cầu người và phương tiện giao thông ở Paris phải đi bên phải đường. Napoleon đã dùng quyền lực của mình buộc quân đội, người dân Pháp đi bên phải đường. Sau này, thắng lợi từ các cuộc chiến tranh của Napoleon đã mang luật đi bên phải đường đến các nước như Thuỵ Sĩ, Đức, Ý, Ba Lan và Tây Ban Nha. Các nước kiên quyết chống lại Napoleon vẫn giữ nguyên tập quán đi bên trái đường như Anh, Áo - Hung, Nga và Bồ Đào Nha.

    Trong số các nước độc lập khác chỉ có Đan Mạch là chuyển sang đi bên phải đường (năm 1793). Sự phân chia giữa các quốc gia đi bên trái và bên phải đường ở châu Âu vẫn được giữ đến sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc.

    Trong khi đó, thói quen đi bên trái đường tiếp tục được mở rộng sang Mĩ. Mắt xích quan trọng để có sự thay đổi chính là Tướng Lafayette, nhà cải cách tự do người Pháp, người đã từng sang thăm và mang quân sang giúp Mĩ trong suốt cuộc chiến độc lập.

    Lần đầu tiên, luật pháp Mĩ quy định người tham gia giao thông đi bên phải đường là vào năm 1792 tại Pennsylvania. Còn Canada lúc đó vẫn đang là thuộc địa của Anh nên nước này hầu như vẫn giữ quy định đi bên trái đường cho đến những năm 1920.

    Bởi "Mặt trời không bao giờ lặn trên đất Anh" nên rõ ràng là mặt trời cũng không bao giờ lặn trên các vùng đất quy định đi bên trái đường. Các nước Nam Á, các nước ở châu Đại Dương và các thuộc địa châu Phi đều áp dụng quy định đi trái đường, ngoại trừ Ai Cập vì Ai Cập từng bị quân Napoleon chiếm đóng trước khi rơi vào tay thực dân Anh.

    Ngay cả Nhật Bản dù không là thuộc địa của Anh nhưng cũng có luật đi bên trái. Chính sách ngoại giao pháo hạm của Mĩ và Anh đã buộc Nhật Bản phải mở các cảng biển cho thương nhân nước ngoài vào làm ăn. Năm 1859, người đại diện của nữ hoàng Victoria ở toà án Nhật Bản là Rutherford Alcock đã thuyết phục nước này áp dụng luật đi bên trái đường.

    Ở Trung Quốc, các cuộc chiến tranh thuốc phiện đã góp phần giúp Anh gây áp lực khiến chính phủ Trung quốc áp dụng luật đi trái đường. Hầu hết các thuộc địa của châu Âu đều làm theo các quy định của nước xâm lược, chẳng hạn Indonesia tiếp tục áp dụng tục lái xe bên trái giống Hà Lan dù Hà Lan đã chuyển sang lái xe bên phải sau khi thành lập nước Cộng hoà Batavian năm 1795.

    Ngày 12/3/1938, quân Phát-xit chiếm Áo và ngày sau đó đã tuyên bố vùng Anschluss của Áo nhập vào Đức. Y đã ra lệnh tất cả phải chuyển sang đi bên phải đường ngay trong đêm đó. Sự thay đổi đó đã khiến giao thông trên đường trở nên hỗn loạn bởi các lái xe không thể thấy hết các biển báo.

    Czechoslovalia và Hungary, hai nước cuối cùng ở lục địa châu Âu vốn đi bên trái đường cuối cùng đã phải chuyển sang đi bên phải sau khi bị Đức chiếm đóng năm 1939.

    Sau chiến tranh, sự xuất hiện ngày càng nhiều của các loại xe cơ giới càng thúc đẩy việc chuyển sang lái xe bên phải. Hầu hết các phương tiện giao thông đều được sản xuất để đi bên phải và các lái xe cũng không muốn phải chuyển từ bên này qua bên kia đường khi qua các vùng cửa khẩu quốc tế.

    Trung Quốc chuyển sang lái xe bên phải năm 1946. Thuỵ Điển, nước thoát khỏi sự xâm lược của Napoleon và Hitler chuyển sang lái xe bên phải năm 1967 sau 2 năm chuẩn bị. Một số thuộc địa cũ của Anh như Ghana cũng vừa chuyển sang lái xe bên phải cách đây vài năm.

    Hệ thống đường sắt của Anh cũng dựa theo luật lệ của đường bộ, đi bên trái đường nhưng tàu thuyền trên biển lại đi bên phải.Ở Pháp, hệ thống đường sắt cũng chạy bên trái. Lí do thật đơn giản, hệ thống đường sắt của Pháp lại do kĩ sư người Anh tên là Thomas Brassey xây dựng. Tuy nhiên, ở Alsace Lorraine, vùng đất bị Đức chiếm từ năm 1870 và được trả lại cho Pháp vào cuối thế chiến thứ nhất, tàu hoả lại chạy bên phải vì chúng do các kĩ sư người Đức thiết kế và xây dựng.

    Ở Paris, các tàu điện ngầm chạy bên phải. Tuy nhiên, tàu tốc hành ở Pháp lại chạy bên trái đường. Và điều này có thể coi là may mắn cho tương lai của kênh đào xuyên đại dương giữa Pháp và Anh khi hệ thống đường sắt của hai nước này đều chọn bên trái đường làm đường chạy.

    Như vậy, trong thời kỳ trung đại, việc đi lại bên tay trái được coi là chuẩn mực. Còn thời hiện đại, đi bên tay phải mới là luật lệ phổ biến nhất. Dù đi bên trái hay phải thì những quy tắc này phụ thuộc rất nhiều vào phương tiện giao thông mà con người sử dụng cũng như cho thấy được phần nào lịch sử quốc gia đó.

    Theo Báo Tin Tức

  • Du khách đến Anh và dạo bước bên dòng sông Thames êm đềm sẽ không khỏi khiếp sợ khi nhìn thấy một dây thòng lọng treo cổ lơ lửng trong gió. Đằng sau nó là một câu chuyện rùng rợn về luật pháp giai đoạn từ thế kỷ 17 đến 19.

    ben tre co o song thames anh quoc 1
    Ảnh: xpgomes10/Flickr

    Sự khiếp sợ của du khách ngày nay khi nhìn thấy chiếc thòng lọng thắt cổ có lẽ chỉ được ví là một phần nhỏ trong nỗi kinh hoàng của người dân thế kỷ 17-19.

    Bởi khi đó, tại bờ sông Thames không chỉ là một mà là hàng chục chiếc thòng lọng cùng những xác chết thối rữa, bị buộc vào lồng sắt. Nhiều người còn ám ảnh với cảnh tượng những chiếc lồng sắt đung đưa trong gió, phát ra những âm thanh chết chóc đủ để khiến bất cứ ai phải rùng mình.

    Đây là những phạm nhân bị hành hình công khai bằng hình thức treo cổ tại Execution Dock (bến hành hình) diễn ra bên bờ sông Thames tại thủ đô London trong suốt hàng trăm năm.

    Đây là thời điểm nước Anh đang tiến hành bành trướng, mở rộng phạm vi ảnh hưởng đế chế của mình, nhằm cạnh tranh với Tây Ban Nha và Pháp. Đế quốc Anh tiến hành mạnh mẽ công cuộc mở rộng thuộc địa tại những nơi xa xôi trên khắp các đại dương.

    Hoạt động giao thương trên biển giữa Anh và các thuộc địa diễn ra một cách nhộn nhịp. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu thiết yếu, đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ hàng hóa do nước Anh sản xuất.

    Để hệ thống thương mại này thành công, Anh cần các tuyến hàng hải an toàn.

    ben tre co o song thames anh quoc 1
    Nhiều phim về cướp biển tái hiện lại cảnh treo cổ ở bên bờ sông Thames. Ở đây, một cảnh trong phim Cánh buồm đen (2014). Ảnh: Mischief PR

    Vào thời điểm đó, đặc biệt trong thời gian trị vì của Nữ hoàng Elizabeth I, nạn cướp biển được hoàng gia bảo trợ, và sử dụng như một công cụ hỗ trợ nhằm chống lại các tàu buôn của nước ngoài.

    Tuy nhiên những người kế nhiệm Nữ hoàng Elizabeth I lại không ủng hộ hành động này, việc dung túng cho cướp biển bị bãi bỏ. Việc cướp bóc trên biển được coi là một tội ác, vì nó là một mối đe dọa lớn đối với các tuyến thương mại.

    Hình phạt duy nhất cho tội ác này đó là cái chết.

    Trong giai đoạn này, phần lớn tội phạm chờ thi hành án tử hình sẽ bị giam giữ tại Newgate rồi sau đó được đưa đến Tyburn để treo cổ (vị trí này nay là Marble Arch).

    Cướp biển và các tội phạm hàng hải khác như những kẻ chống đối và buôn lậu, thường bị giam giữ tại nhà tù Marshalsea, sau đó sẽ đưa đến Execution Dock để xử tử công khai.

    Theo truyền thống lịch sử Anh, tội phạm thường bị hành quyết tại nơi gây án, do vậy cướp biển và các tội phạm hàng hải khác sẽ bị xử tử bên bờ sông Thames, bởi con sông này đổ ra biển Bắc.

    Trước khi ra pháp trường, phạm nhân được đưa đi diễu hành qua các con phố từ nhà tù đến Execution Dock, dưới sự giám sát của một vị tướng lĩnh Hải quân Hoàng gia cùng đông đảo người dân.

    Tại khu vực thi hành án và trên đường phố, người dân London thường tụ tập rất đông để theo dõi quá trình áp giải và xử tử. Mọi thành phần từ nam giới đến phụ nữ, già lẫn trẻ, thậm chí còn có cả trẻ em – tất cả tụ tập thành một đám đông khổng lồ với mong muốn được tận mắt chứng kiến tên cướp biển bị treo cổ đến chết.

    Trước khi thi hành án, phạm nhân được hưởng ân huệ cuối cùng đó là uống một cốc bia tại quán rượu mang tên The Turks Head Inn, hiện nay là một quán cà phê. Ngoài ra, tên cướp biển sẽ có cơ hội "nói lời cuối cùng" trước đông đảo dân chúng có mặt tại pháp trường.

    ben tre co o song thames anh quoc 1
    Một bản chạm khắc năm 1795 mô tả cảnh cướp biển bị treo cổ tại Execution Dock. Ảnh: Royal Museums Greenwich

    Để làm cho những tên cướp biển cảm nhận rõ ràng sự đau đớn trước khi chết, dây thòng lọng trên giá treo cổ được rút ngắn hơn so với bình thường đủ để khiến phạm nhân không bị chết ngay do gãy cổ khi rơi.

    Thay vào đó, phạm nhân sẽ cảm nhận cái chết đang đến chậm chạp do dây thừng siết chặt vào cổ. Trong quá trình này, phạm nhân sẽ không thể hô hấp, họ giãy giụa, quằn quại trong đau đớn trước khi chết.

    Việc thi hành án treo cổ luôn diễn ra khi thủy triều xuống thấp. Sau khi phạm nhân chấp hành xong án tử hình, người ta sẽ đợi cho đến khi ba lần thủy triều lên để "cọ rửa" thi thể những tên cướp biển trước khi hạ xuống.

    Riêng những tên cướp biển khét tiếng nhất, thi thể sẽ được "trưng bày" trong lồng sắt và được treo y nguyên trên giá trong thời gian dài hơn để cảnh báo cho tất cả những ai đang có ý tưởng trở thành cướp biển.

    Ví dụ như trường hợp của tên cướp biển khét tiếng, thuyền trưởng William Kidd, bị xử tử vào năm 1701 vì tội giết người và cướp bóc trên biển, thi thể của Kidd bị treo trong lồng sắt suốt ba năm để làm gương cho những tên cướp biển khác.

    ben tre co o song thames anh quoc 1
    Giá treo cổ hiện nay bên ngoài quán rượu Prospect of Whitby. Ảnh: Felix Cohen/Flickr

    Tuy nhiên, không vì thế mà nạn cướp biển suy giảm. Vào khoảng thế kỷ 18, cướp biển đã phát triển nhanh về số lượng đến nỗi gần như không thể áp giải những tên cướp biển sa lưới về London để xử tử vì thiếu nhân lực và sự sụt giảm về kinh tế.

    Sau khi Anh giành được các thuộc địa vùng Caribe, họ quyết định thành lập nên Tòa án Hải quân Hoàng gia tại Port Royal (Jamaica) và thuộc địa ở Bắc Mỹ (Boston, Providence và Charleston) để xử quyết cướp biển.

    Vụ hành hình cướp biển cuối cùng tại Execution Dock diễn ra vào ngày 16/12/1830, kết thúc hàng trăm năm thực thi các biện pháp xử lý cứng rắn của nước Anh đối với nạn cướp biển.

    Ngày nay, không một ai biết chắc chắn vị trí từng là nơi đặt giá treo cổ và hành quyết cướp biển tại Execution Dock ở London.

    Tuy vậy, du khách có thể hình dung về nó khi quan sát một "bản sao" ngay bên ngoài Prospect of Whitby, một quán rượu gần 500 năm tuổi trên phố Katharine's & Wapping bên bờ sông Thames.

    Theo Tuổi Trẻ