• Ở Trung Quốc và rất nhiều nước trên thế giới, bất kể ô tô, xe đạp hay người đi bộ cũng phải theo đúng quy tắc giao thông hiện hành là đi theo bên phải đường. Nhưng ở nước Anh và một số nước khác thì trái ngược hẳn, mọi phương tiện giao thông cũng như người đi bộ phải đi bên trái đường. Vì sao vậy ?

    Thật ra tập quán này của Anh và một số nước khác cũng có nguyên nhân lịch sử của nó. Từ thế kỷ XIV và XV, khi nước Anh và một số nước khác còn chưa có ô tô và xe đạp, người ta đi lại bằng ngựa, hoặc đi bộ.

    Các hiệp sỹ, các nhà quý tộc giàu có khi đi đường thường đeo kiếm bên mình. Thông thường người ta đều thuận dùng tay phải nên kiếm được đeo bên trái thân mình để khi cần có thể tiện tay rút kiếm ra ngay. Còn khi bị kẻ địch tấn công từ phía trước mặt thì bên trái đường sẽ tiện cho việc đỡ đòn và tấn công kẻ địch hơn. Hãy thử tưởng tượng, nếu bị một kẻ thuận tay phải tấn công từ trước mặt thì đòn tấn công sẽ nhằm vào bên trái người bị tấn công, nên người ta phải né sang phải để tránh đòn. Vì lý do đó mà ở Anh và một số nước mấy trăm năm nay người ta đều đi bên trái đường.

    Về sau súng được phát minh. Khi dùng súng nhằm vào đối phương người ta thường lấy tay trái đỡ súng, tay phải đặt vào cò súng. Trong trường hợp này, đi bên phải đường dễ chống kẻ địch từ phía trước tiến tới hơn. Vì lý do này mà ở các quốc gia phát triển muộn hơn ở Mỹ có quy định đi bên phải đường.

    Trên thế giới phân biệt hai luật giao thông quy định đi bên phải và đi bên trái đường. Đa số các nước, bắt đầu từ Mỹ, Trung Quốc,... đều quy định đi bên phải đường, còn lại là các nước đi bên trái đường như Anh, Nhật Bản.

    Khi Giáo hoàng Boniface VIII cùng đoàn người hành hương đi bên trái đường năm 1300, việc đi bên trái đã được công nhận rộng rãi. Năm 1756, Quốc hội Anh đã thông qua luật quy định xe đi bên trái trên đoạn cầu London. Đến năm 1772, quy định này đã được mở rộng sang các thị trấn ở Scotland. Mức xử phạt đối với người vi phạm là 20shilling (1 bảng Anh). Mãi đến năm 1835, luật đi bên trái đường mới chính thức được quy định trong luật pháp Anh. Dự luật Xa lộ được giới thiệu trong 4 cuộc họp liên tiếp của Quốc hội trước khi nó chính thức trở thành luật.

    drive on left 2800x1723

    Còn việc lái xe bên phải đường bắt đầu từ thời Cách mạng Pháp và những nhân vật được cho là có ảnh hưởng quyết định đến việc thay đổi thói quen đi bên trái sang bên phải đường là Maximilien Robespierre, Napoleon Bonaparte và Adolf Hitler.

    Thời kỳ đó, ở Pháp có sự phân biệt giai cấp rõ ràng khi quy định đi lại bên chiều nào trên đường. Giới quý tộc đánh xe bên trái đường, buộc dân thường đi bên phải đường. Khi cách mạng nổ ra năm 1789 và với tuyên ngôn Nhân quyền năm 1791, giới quý tộc đồng ý với quy định đi lại bên phải đường nhằm tránh sự chú ý của dư luận vào mình.

    Chính Robespirre là người đầu tiên đã soạn ra những thay đổi và yêu cầu người và phương tiện giao thông ở Paris phải đi bên phải đường. Napoleon đã dùng quyền lực của mình buộc quân đội, người dân Pháp đi bên phải đường. Sau này, thắng lợi từ các cuộc chiến tranh của Napoleon đã mang luật đi bên phải đường đến các nước như Thuỵ Sĩ, Đức, Ý, Ba Lan và Tây Ban Nha. Các nước kiên quyết chống lại Napoleon vẫn giữ nguyên tập quán đi bên trái đường như Anh, Áo - Hung, Nga và Bồ Đào Nha.

    Trong số các nước độc lập khác chỉ có Đan Mạch là chuyển sang đi bên phải đường (năm 1793). Sự phân chia giữa các quốc gia đi bên trái và bên phải đường ở châu Âu vẫn được giữ đến sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc.

    Trong khi đó, thói quen đi bên trái đường tiếp tục được mở rộng sang Mĩ. Mắt xích quan trọng để có sự thay đổi chính là Tướng Lafayette, nhà cải cách tự do người Pháp, người đã từng sang thăm và mang quân sang giúp Mĩ trong suốt cuộc chiến độc lập.

    Lần đầu tiên, luật pháp Mĩ quy định người tham gia giao thông đi bên phải đường là vào năm 1792 tại Pennsylvania. Còn Canada lúc đó vẫn đang là thuộc địa của Anh nên nước này hầu như vẫn giữ quy định đi bên trái đường cho đến những năm 1920.

    Bởi "Mặt trời không bao giờ lặn trên đất Anh" nên rõ ràng là mặt trời cũng không bao giờ lặn trên các vùng đất quy định đi bên trái đường. Các nước Nam Á, các nước ở châu Đại Dương và các thuộc địa châu Phi đều áp dụng quy định đi trái đường, ngoại trừ Ai Cập vì Ai Cập từng bị quân Napoleon chiếm đóng trước khi rơi vào tay thực dân Anh.

    Ngay cả Nhật Bản dù không là thuộc địa của Anh nhưng cũng có luật đi bên trái. Chính sách ngoại giao pháo hạm của Mĩ và Anh đã buộc Nhật Bản phải mở các cảng biển cho thương nhân nước ngoài vào làm ăn. Năm 1859, người đại diện của nữ hoàng Victoria ở toà án Nhật Bản là Rutherford Alcock đã thuyết phục nước này áp dụng luật đi bên trái đường.

    Ở Trung Quốc, các cuộc chiến tranh thuốc phiện đã góp phần giúp Anh gây áp lực khiến chính phủ Trung quốc áp dụng luật đi trái đường. Hầu hết các thuộc địa của châu Âu đều làm theo các quy định của nước xâm lược, chẳng hạn Indonesia tiếp tục áp dụng tục lái xe bên trái giống Hà Lan dù Hà Lan đã chuyển sang lái xe bên phải sau khi thành lập nước Cộng hoà Batavian năm 1795.

    Ngày 12/3/1938, quân Phát-xit chiếm Áo và ngày sau đó đã tuyên bố vùng Anschluss của Áo nhập vào Đức. Y đã ra lệnh tất cả phải chuyển sang đi bên phải đường ngay trong đêm đó. Sự thay đổi đó đã khiến giao thông trên đường trở nên hỗn loạn bởi các lái xe không thể thấy hết các biển báo.

    Czechoslovalia và Hungary, hai nước cuối cùng ở lục địa châu Âu vốn đi bên trái đường cuối cùng đã phải chuyển sang đi bên phải sau khi bị Đức chiếm đóng năm 1939.

    Sau chiến tranh, sự xuất hiện ngày càng nhiều của các loại xe cơ giới càng thúc đẩy việc chuyển sang lái xe bên phải. Hầu hết các phương tiện giao thông đều được sản xuất để đi bên phải và các lái xe cũng không muốn phải chuyển từ bên này qua bên kia đường khi qua các vùng cửa khẩu quốc tế.

    Trung Quốc chuyển sang lái xe bên phải năm 1946. Thuỵ Điển, nước thoát khỏi sự xâm lược của Napoleon và Hitler chuyển sang lái xe bên phải năm 1967 sau 2 năm chuẩn bị. Một số thuộc địa cũ của Anh như Ghana cũng vừa chuyển sang lái xe bên phải cách đây vài năm.

    Hệ thống đường sắt của Anh cũng dựa theo luật lệ của đường bộ, đi bên trái đường nhưng tàu thuyền trên biển lại đi bên phải.Ở Pháp, hệ thống đường sắt cũng chạy bên trái. Lí do thật đơn giản, hệ thống đường sắt của Pháp lại do kĩ sư người Anh tên là Thomas Brassey xây dựng. Tuy nhiên, ở Alsace Lorraine, vùng đất bị Đức chiếm từ năm 1870 và được trả lại cho Pháp vào cuối thế chiến thứ nhất, tàu hoả lại chạy bên phải vì chúng do các kĩ sư người Đức thiết kế và xây dựng.

    Ở Paris, các tàu điện ngầm chạy bên phải. Tuy nhiên, tàu tốc hành ở Pháp lại chạy bên trái đường. Và điều này có thể coi là may mắn cho tương lai của kênh đào xuyên đại dương giữa Pháp và Anh khi hệ thống đường sắt của hai nước này đều chọn bên trái đường làm đường chạy.

    Như vậy, trong thời kỳ trung đại, việc đi lại bên tay trái được coi là chuẩn mực. Còn thời hiện đại, đi bên tay phải mới là luật lệ phổ biến nhất. Dù đi bên trái hay phải thì những quy tắc này phụ thuộc rất nhiều vào phương tiện giao thông mà con người sử dụng cũng như cho thấy được phần nào lịch sử quốc gia đó.

    Theo Báo Tin Tức

  • Du khách đến Anh và dạo bước bên dòng sông Thames êm đềm sẽ không khỏi khiếp sợ khi nhìn thấy một dây thòng lọng treo cổ lơ lửng trong gió. Đằng sau nó là một câu chuyện rùng rợn về luật pháp giai đoạn từ thế kỷ 17 đến 19.

    ben tre co o song thames anh quoc 1
    Ảnh: xpgomes10/Flickr

    Sự khiếp sợ của du khách ngày nay khi nhìn thấy chiếc thòng lọng thắt cổ có lẽ chỉ được ví là một phần nhỏ trong nỗi kinh hoàng của người dân thế kỷ 17-19.

    Bởi khi đó, tại bờ sông Thames không chỉ là một mà là hàng chục chiếc thòng lọng cùng những xác chết thối rữa, bị buộc vào lồng sắt. Nhiều người còn ám ảnh với cảnh tượng những chiếc lồng sắt đung đưa trong gió, phát ra những âm thanh chết chóc đủ để khiến bất cứ ai phải rùng mình.

    Đây là những phạm nhân bị hành hình công khai bằng hình thức treo cổ tại Execution Dock (bến hành hình) diễn ra bên bờ sông Thames tại thủ đô London trong suốt hàng trăm năm.

    Đây là thời điểm nước Anh đang tiến hành bành trướng, mở rộng phạm vi ảnh hưởng đế chế của mình, nhằm cạnh tranh với Tây Ban Nha và Pháp. Đế quốc Anh tiến hành mạnh mẽ công cuộc mở rộng thuộc địa tại những nơi xa xôi trên khắp các đại dương.

    Hoạt động giao thương trên biển giữa Anh và các thuộc địa diễn ra một cách nhộn nhịp. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu thiết yếu, đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ hàng hóa do nước Anh sản xuất.

    Để hệ thống thương mại này thành công, Anh cần các tuyến hàng hải an toàn.

    ben tre co o song thames anh quoc 1
    Nhiều phim về cướp biển tái hiện lại cảnh treo cổ ở bên bờ sông Thames. Ở đây, một cảnh trong phim Cánh buồm đen (2014). Ảnh: Mischief PR

    Vào thời điểm đó, đặc biệt trong thời gian trị vì của Nữ hoàng Elizabeth I, nạn cướp biển được hoàng gia bảo trợ, và sử dụng như một công cụ hỗ trợ nhằm chống lại các tàu buôn của nước ngoài.

    Tuy nhiên những người kế nhiệm Nữ hoàng Elizabeth I lại không ủng hộ hành động này, việc dung túng cho cướp biển bị bãi bỏ. Việc cướp bóc trên biển được coi là một tội ác, vì nó là một mối đe dọa lớn đối với các tuyến thương mại.

    Hình phạt duy nhất cho tội ác này đó là cái chết.

    Trong giai đoạn này, phần lớn tội phạm chờ thi hành án tử hình sẽ bị giam giữ tại Newgate rồi sau đó được đưa đến Tyburn để treo cổ (vị trí này nay là Marble Arch).

    Cướp biển và các tội phạm hàng hải khác như những kẻ chống đối và buôn lậu, thường bị giam giữ tại nhà tù Marshalsea, sau đó sẽ đưa đến Execution Dock để xử tử công khai.

    Theo truyền thống lịch sử Anh, tội phạm thường bị hành quyết tại nơi gây án, do vậy cướp biển và các tội phạm hàng hải khác sẽ bị xử tử bên bờ sông Thames, bởi con sông này đổ ra biển Bắc.

    Trước khi ra pháp trường, phạm nhân được đưa đi diễu hành qua các con phố từ nhà tù đến Execution Dock, dưới sự giám sát của một vị tướng lĩnh Hải quân Hoàng gia cùng đông đảo người dân.

    Tại khu vực thi hành án và trên đường phố, người dân London thường tụ tập rất đông để theo dõi quá trình áp giải và xử tử. Mọi thành phần từ nam giới đến phụ nữ, già lẫn trẻ, thậm chí còn có cả trẻ em – tất cả tụ tập thành một đám đông khổng lồ với mong muốn được tận mắt chứng kiến tên cướp biển bị treo cổ đến chết.

    Trước khi thi hành án, phạm nhân được hưởng ân huệ cuối cùng đó là uống một cốc bia tại quán rượu mang tên The Turks Head Inn, hiện nay là một quán cà phê. Ngoài ra, tên cướp biển sẽ có cơ hội "nói lời cuối cùng" trước đông đảo dân chúng có mặt tại pháp trường.

    ben tre co o song thames anh quoc 1
    Một bản chạm khắc năm 1795 mô tả cảnh cướp biển bị treo cổ tại Execution Dock. Ảnh: Royal Museums Greenwich

    Để làm cho những tên cướp biển cảm nhận rõ ràng sự đau đớn trước khi chết, dây thòng lọng trên giá treo cổ được rút ngắn hơn so với bình thường đủ để khiến phạm nhân không bị chết ngay do gãy cổ khi rơi.

    Thay vào đó, phạm nhân sẽ cảm nhận cái chết đang đến chậm chạp do dây thừng siết chặt vào cổ. Trong quá trình này, phạm nhân sẽ không thể hô hấp, họ giãy giụa, quằn quại trong đau đớn trước khi chết.

    Việc thi hành án treo cổ luôn diễn ra khi thủy triều xuống thấp. Sau khi phạm nhân chấp hành xong án tử hình, người ta sẽ đợi cho đến khi ba lần thủy triều lên để "cọ rửa" thi thể những tên cướp biển trước khi hạ xuống.

    Riêng những tên cướp biển khét tiếng nhất, thi thể sẽ được "trưng bày" trong lồng sắt và được treo y nguyên trên giá trong thời gian dài hơn để cảnh báo cho tất cả những ai đang có ý tưởng trở thành cướp biển.

    Ví dụ như trường hợp của tên cướp biển khét tiếng, thuyền trưởng William Kidd, bị xử tử vào năm 1701 vì tội giết người và cướp bóc trên biển, thi thể của Kidd bị treo trong lồng sắt suốt ba năm để làm gương cho những tên cướp biển khác.

    ben tre co o song thames anh quoc 1
    Giá treo cổ hiện nay bên ngoài quán rượu Prospect of Whitby. Ảnh: Felix Cohen/Flickr

    Tuy nhiên, không vì thế mà nạn cướp biển suy giảm. Vào khoảng thế kỷ 18, cướp biển đã phát triển nhanh về số lượng đến nỗi gần như không thể áp giải những tên cướp biển sa lưới về London để xử tử vì thiếu nhân lực và sự sụt giảm về kinh tế.

    Sau khi Anh giành được các thuộc địa vùng Caribe, họ quyết định thành lập nên Tòa án Hải quân Hoàng gia tại Port Royal (Jamaica) và thuộc địa ở Bắc Mỹ (Boston, Providence và Charleston) để xử quyết cướp biển.

    Vụ hành hình cướp biển cuối cùng tại Execution Dock diễn ra vào ngày 16/12/1830, kết thúc hàng trăm năm thực thi các biện pháp xử lý cứng rắn của nước Anh đối với nạn cướp biển.

    Ngày nay, không một ai biết chắc chắn vị trí từng là nơi đặt giá treo cổ và hành quyết cướp biển tại Execution Dock ở London.

    Tuy vậy, du khách có thể hình dung về nó khi quan sát một "bản sao" ngay bên ngoài Prospect of Whitby, một quán rượu gần 500 năm tuổi trên phố Katharine's & Wapping bên bờ sông Thames.

    Theo Tuổi Trẻ