Đà Lạt, thủ phủ của “Hoàng triều cương thổ”

Thành phố Đà Lạt có lịch sử 120 năm phát hiện và phát triển (1893 – 2013) đã từng là thủ phủ của Hoàng triều cương thổ (1950 – 1954) – nơi còn in đậm những kỷ niệm hồi hương của cựu hoàng Bảo Đại.

Yếu tố ” núi” và “nước” trong mưa tuyết Đà Lạt

Nhà Nguyễn phóng tầm nhìn đến Đà Lạt để xây một hành cung của mình trên đó. Chứng cứ được ghi lại qua việc triều đình phái đại thần Đoàn Đình Duyệt, Thượng thư bộ Công, Cơ mật đại thần, kiêm Quản đốc Đô sát viện lên đường đến Đà Lạt giữa tháng 7 năm 1918. Đường sá đi lại hồi đó không thuận tiện như bây giờ. Khởi hành từ Huế bằng xe lửa, Đoàn Đình Duyệt xuống ga Đà Nẵng, đi bằng đường thủy về phương Nam đến Qui Nhơn, cảng Ba Ngòi, Phan Rang, rẽ hướng lên cao nguyên Lâm Viên, vượt qua “đỉnh Eo Gió (Bellevue) ở độ cao 1.045 thước tây” và mô tả “hai bên đường cây cối rậm rạp tuyệt nhiên không có dân cư (…) chốn rừng rú u tịch, đường đá gồ ghề khó đi – khiêng kiệu phải dùng người Thượng mới đi được”, từ đó đi thêm theo “đường bộ dài 61km” lên tới Đà Lạt lúc “trời vào tiết đầu thu (…) xem khí hậu thấy giống như đầu xuân – theo lời quý quan trú ở đây thì vùng đất này tới mùa đông hàn thử biểu có lúc xuống một, hai độ, giống như khí hậu miền Nam châu Âu – đôi khi cũng có mưa tuyết – quả là điều kỳ lạ trên đất nước Lĩnh Nam vậy” (1).

Hai ngày sau trời mưa liên tục, đến ngày thứ ba ông mới bắt đầu dạo quanh, thấy dinh thự, khách sạn cho đến nhà ở của dân “thảy đều xây cất trên đồi núi với cảnh đẹp giống như tranh vẽ”.

Cuối cùng ông cũng tìm được một cuộc đất có thế địa lý ưng ý để chọn làm nơi xây hành cung cho nhà vua trên ngọn núi có “đỉnh bằng phẳng rộng chừng trên 10 mẫu nằm gần ngọn núi xây cất Phủ toàn quyền, hiện đang có những cây thông già xanh tốt (mọc tự nhiên) mỗi cây cao 6, 7 thước tây, mọc thành hàng như do người trồng, cảnh trí rất tự nhiên (…) một dòng suối lượn quanh bao bọc từ bên phải ra đến phía sau núi. Thật là một địa điểm cao ráo quang đãng” phù hợp với yêu cầu về phong thủy cho một hành cung tọa lạc.

Luôn tiện ông cũng mô tả suối Cam Ly “chảy quanh co như một con sông, đến chỗ Cẩm Lệ (Cam Ly) thì có một khối đá lớn chắn ngang, dưới chân khối đá có một cái hồ lớn, từ mép hồ lên tới đầu khối đá cao độ 30 thước tây. Mặt khối đá có hai khe hở, nước từ khe hở chảy vọt xuống như hai cầu vồng dài. Giữa hồ nhô lên một cái gò như bãi trâu tắm” – trên gò có xây lầu bát giác, đứng ở lầu nhìn ra bốn phía thấy nước chảy vòng quanh, trăm hoa vây bọc “quả là chốn bồng lai tiên cảnh”(2).

Những mô tả trực quan của đại thần Đoàn Đình Duyệt gợi đến những chỉ dẫn của khoa địa lý phong thủy với hai phần: loan đầu và lý khí. Trong đó phần loan đầu là những gì một thầy địa lý có thể dùng mắt để trực tiếp quan sát được từ hình thể bao quát của một cuộc đất. Phần lý khí gồm những ứng dụng của lý học phương Đông vào việc xem xét chỗ đất kết. Ở đây Đoàn Đình Duyệt dùng kỹ năng sẵn có để thực hiện giai đoạn loan đầu rồi ghi vào bản trình tấu bằng chữ Hán lên vua Khải Định được dịch ra tiếng Việt đăng trên Tạp chí Nam Phong số tháng 3 và 4 năm 1918 (3).

3 19

Dinh thự, khách sạn, nhà dân ở Đà Lạt đều xây cất trên đồi núi với cảnh đẹp như tranh vẽ

Đến nay phong thủy học được kết hợp bởi địa chất học để tham cứu thêm về một cuộc đất nào đó. Riêng Đà Lạt, theo Võ Đình Ngộ:

“các khối nham biến tính lẫn hoa cương đều bị các mạch thạch anh, thạch bích cắt ngang” (4). Các mạch thạch anh này chạy song song dưới các ngọn đồi hoa cương ẩn hiện quanh thành phố, theo thế nghiêng, hoặc thẳng đứng, hoặc cắt nhau “một vài nơi như ở ngọn đồi Pin Thouard, trên đường Đà Lạt – Suối Vàng và ngọn đồi ở Trường Adran (ấp Xuân An) các mạch thạch anh lớn và chằng chịt” (…) một vài dữ liệu quan trọng có thể viết lại lịch sử của vùng này” trong đó có kết quả nghiên cứu khoa học về các lớp sa thạch và diệp thạch đã bị gấp nếp (plissement) theo “hướng chính là Đông bắc – Tây nam, hoặc Đông – Đông bắc, Tây – Tây nam – hoặc từ Bắc chí Nam.

Như vậy, hướng gấp nếp này không giống hướng gấp nếp của Trường Sơn mà thuộc về Nam Sơn (…)”. Gần đây việc định tuổi tuyệt đối của hoa cương Đà Lạt là 191 triệu năm (theo Géochronologie du Vietnam méridional – Faure, Cl., et Fontaine, H., 1969).

Quá trình xâm thực đã làm hình dạng của mặt đất thay đổi mà “yếu tố quan trọng nhất là dòng nước (…) để lại vô số thung lũng và đường đỉnh nằm song song với nhau”. Đến nguyên đại cận sinh (cénozoêque) về sau, chuyển động Hymalayen tạo nên những đường toạc, đưa loại dung nham khác trào lên đã nâng cao địa thế của vùng này thêm một lần nữa khiến“các đỉnh núi bị mài mòn hoặc bị phá hủy, làm cho hình thể mặt đất, càng lúc theo thời gian, càng bị san bằng để tạo thành một bán bình nguyên như ngày nay”.

Trên “bán bình nguyên” ấy mây mù bao phủ, che kín bầu trời từ 5/8 đến 6/8 vào mỗi mùa mưa. Về mùa đông đôi khi ẩm độ xuống quá 10% lúc trời sập tối. Sáng ra, không khí ẩm tăng lên do “sự tăng động của gió mùa Tây Nam trên triền núi”. Còn sương mù Đà Lạt thuộc loại “sương mù bức xạ do sự hóa lạnh ban đêm của mặt đất”. Phần lớn “các dãy núi cao đều vây quanh thành phố Đà Lạt và chính những núi cao này đã làm tăng thêm vẻ quyến rũ của miền đất này”.

Về nguồn nước, phía Tây bắc Đà Lạt có thác Suối Vàng đưa nước chảy trên nền đá hoa cương. Phía Tây có thác Cam Ly. Phía Nam có thác Datanla và tháp Prenn danh tiếng đưa nước chảy trên nền nham huyền vũ. Về hướng Nam trên đường đi Sài Gòn có thác Liên Khàng nằm cách Đà Lạt 30km. Do ở độ cao hàng nghìn mét nên nước của Đà Lạt không thể “thủy tụ” mà luôn có xu hướng đổ về xuôi, tức là “chảy xuống”. Cả những nơi “thủy tụ” như hồ Than Thở vẫn có không gian chứa đựng những huyền thoại tình yêu buồn man mác…

Hồ Than Thở, nơi chứa đựng những huyền thoại tình yêu buồn man mác

Đến Đà Lạt, hoàng đế cũng mộng mơ !

Bảo Đại “có duyên” với “thành phố mộng mơ” ngay từ hồi chưa thoái vị. Ông đã “mơ mộng” có ngày lên đó làm ăn (như dân thường). Nên chưa đầy 24 giờ trước ngày rời khỏi ngai vàng vào cuối tháng 8.1945, ông đã gọi Ngự tiền văn phòng tổng lý của mình là Phạm Khắc Hòe vào tâm sự. Ông muốn sau khi trao ấn kiếm cho chính quyền, hai người sẽ rời kinh thành Huế lên đường “làm ăn chung” trên cao nguyên. Hoàng đế muốn làm gì ? Làm thợ săn ! Vì dạo ấy ông và hoàng hậu Nam Phương vừa tậu sẵn một đồn điền trồng chè ở Blao nằm trên quốc lộ 20 đường Đà Lạt – Sài Gòn. Ở đó ông lại sẵn có hai chiếc xe cam-nhông còn khá mới:

- “Ông nói sẽ cho tôi (Phạm Khắc Hòe) thuê một chiếc để tôi đóng lại làm nghề chạy xe đò sinh sống, vì trước kia trong những năm 1927 – 1928 tôi cũng đã từng làm giám đốc một xí nghiệp chạy xe đò và sửa chữa ô-tô tại Quy Nhơn. Còn nghề săn bắn của Bảo Đại thì không những ngày nào ông ta cũng sẽ có thịt gà rừng, heo rừng, nai, thỏ v.v… để ăn và đem ra chợ bán, mà ít ra mỗi tháng còn có thể kiếm được vài con hổ nữa…”.

Nhắc đến hổ, ông Phạm Khắc Hòe kể thêm trong hồi ký : Nếu Bảo Đại săn được hổ thì da hổ, thịt hổ, răng hổ, móng chân hổ đều là những món hàng hái ra tiền cả. Nhất là xương hổ Bảo Đại sẽ giao cho ông Hòe để “cho tôi nấu cao hổ cốt bán chia lời” (vì gia đình ông Hòe sành nghề nấu cao hổ nổi tiếng thời ấy mà thành phẩm của họ được dùng để chữa nhiều bệnh). Bao nhiêu chuyện đời nói như đùa nhưng “đều có cơ sở thực tế khiến Bảo Đại rất vui trong khi một không khí buồn tẻ lạnh lùng bao trùm lên cả Đại Nội” trước ngày thoái vị.

Dinh Bảo Đại

Nhưng chỉ là “giấc mơ thôi”. Vì rời ngai vàng song cựu hoàng vẫn là đối tượng tranh thủ của người Pháp, của các chính khách trên chính trường đương thời, trong đó có hai nhân vật “cự phách” là Lưu Đức Trung và Lưu Bá Đạt tung tiền bao bọc để cựu hoàng sống với người đẹp Hoàng Tiểu Lan (người Hoa lai Pháp với tên: Jenny Woong) tại Hương Cảng với giá 15 đô la ở khách sạn mỗi ngày, thêm món tiền khác để cựu hoàng ném vào các sòng bạc, hoặc đến vũ trường với Lan.

Giới tai mắt nhận định những món tiền không nhỏ kia do trùm mật thám Pháp Cousseau đứng sau lưng chi trả. Mục đích của Cousseau nhằm giữ cựu hoàng trong tay để dùng khi cần thiết. Dịp tốt đã đến, Cousseau đóng vai trò không nhỏ trong việc khôn khéo tác động để có cuộc gặp mặt chính thức giữa cựu hoàng và Tổng thống Pháp Vincent Auriol vào giờ ngọ 8.3.1949 tại điện Elysée của thủ đô Paris.

Tiếp sau là một loạt sự kiện dẫn đến việc Pháp đưa cựu hoàng về nước với tư cách Quốc trưởng và thành lập Hoàng triều cương thổ “gồm những vùng cao nguyên có các sắc dân thiểu số từ Trung ra Bắc, là xứ bảo hộ cũ, mệnh danh là Hoàng triều cương thổ, để riêng cho con cháu nhà Nguyễn, xứ Thái Lai Châu và miền Tây Kỳ là đất dành cho Cựu hoàng. Thủ đô của Hoàng triều cương thổ là Đà Lạt và bất cứ ai đặt chân tới lãnh thổ này, kể cả dân Việt Nam đều phải xin phép của Nha Công an Hoàng triều cương thổ thuộc văn phòng Quốc trưởng ở Hà Nội và Sài Gòn, đặt dưới quyền cố vấn của Công an Pháp. Đà Lạt trở thành một kinh đô của những kẻ giàu sang quyền quý, ăn chơi. Phòng trà, tiệm nhảy, nhà ngủ, sòng bạc, đua nhau mọc lên. Cảnh rừng đồi thơ mộng cao nguyên với thông xanh, hoa anh đào đỏ ửng, biến ra làm nơi hò hẹn của những chính khách, bộ trưởng tương lai, hí trường mua chức bán tước hồi toàn thịnh của Bảo Đại. Cựu hoàng đã phải thốt lên: Tôi cần có một chục ngàn ghế bộ trưởng mới đủ ban cho bao nhiêu người tỏ dạ trung thành” (5).

Bà Mộng Điệp ( áo đen bên phải) và cựu hoàng Bảo Đại

Từ Đà Lạt, cựu hoàng mở những bữa tiệc linh đình, những cuộc đi săn cọp trên lưng voi, những buổi đi câu cá có người Thượng xua mồi, có ngự lâm quân đi trước, có những người đẹp làm chiêu đãi viên dâng rượu thịt. Những lúc cao hứng, cựu hoàng tự mình lái xe jeep từ Buôn mê thuột băng rừng về Đà Lạt giữa đêm khuya.

Nhưng nơi mà cựu hoàng thích lui tới vào ban đêm nhất là biệt thự Myrba của vũ nữ Mộng Điệp. Được cựu hoàng quyến luyến, Mộng Điệp tự xem mình như là đệ nhất phu nhân ở thủ đô Hoàng triều cương thổ (…) vào ngay văn phòng Quốc trưởng gọi đích danh viên bí thư và đại úy Nguyễn Chánh võ phòng ra mà chửi mắng:

“Chém cha đồ khốn nạn! Chúng bây có biết vì ai mà chúng bây có cơm ăn, có áo khoác vào người, có biệt thự để ở, có xe hơi để đi không? Chúng bây không biết ơn thì chớ, chúng bây lại lên mặt với anh bà! Để rồi Bà tống cổ chúng bây ra khỏi đây cho biết tay bà!. Mộng Điệp một tay chống nạnh, một tay xỉa xói vào mặt hai nhân viên cao cấp văn phòng Quốc trưởng đang cúi gầm, im lặng chịu đựng cơn thịnh nộ của “cục cưng” cựu hoàng”.

Ở Đà Lạt, cựu hoàng biến biệt điện của mình “trở thành một thứ A Phòng cung tân thời, với các mỹ nữ đủ màu da, Bảo Đại nghiễm nhiên sống trong thế giới khoái lạc của một hoàng đế giữa bao nhiêu cung nữ một thời. (…)Thủ hiến Trung phần Phan Văn Giáo đứng ra phụ trách công việc cung cấp gái cho cựu hoàng, đưa các thiếu nữ Trung Hoa từ Hồng Kông đến, các cô gái Huế từ đất cựu đế đô lên, các cô đầm từ Paris qua … và nhiều người đẹp khắp các phương trời” (6).

Cựu hoàng dành biệt thự khang trang trên cảnh đồi thơ mộng ở Ban Mê Thuột cho người đẹp Mộng Điệp ở – rồi dành riêng một chuyến máy bay thời ấy để chở 2000 con vịt trắng phau chọn mua ở Chợ Lớn đưa về thả từng đôi từng đôi trên mặt hồ trước biệt thự ấy cho thêm phần lãng mạn…

 

Theo Duyên dáng Việt Nam